Cao Bằng sở hữu những lợi thế tự nhiên hiếm có để phát triển nông nghiệp. Với gần 90.000 ha cây trồng chính như lúa, ngô, 30.000 ha cây ăn quả và chăn nuôi, cùng hơn 50.000 ha phù hợp cho các cây công nghiệp ngắn ngày như thuốc lá, mía, đỗ tương, thạch đen, bí xanh, lạc, vùng đất này có một tiềm năng khổng lồ chưa được khai thác triệt để. Đáng chú ý, Cao Bằng còn là kho tàng của 24 nguồn gen cây trồng đặc sản và 10 giống vật nuôi bản địa chất lượng cao, mang đến những lợi thế cạnh tranh vượt trội.
Cuộc cách mạng trong từng mảnh vườn
Tuy nhiên, trong nhiều năm, sản xuất nông nghiệp ở Cao Bằng vẫn chủ yếu dừng lại ở quy mô nhỏ lẻ, tự cung tự cấp. Nông sản địa phương dù ngon, sạch nhưng chưa thực sự vươn ra thị trường lớn, chưa tạo được chuỗi giá trị bền vững để nâng cao thu nhập cho bà con.
Nhận thức rõ điều này, tỉnh Cao Bằng đã và đang thúc đẩy người dân liên kết thành các tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX để sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP, hữu cơ, an toàn sinh học. Đây không chỉ là những kỹ thuật mới mà còn là một sự thay đổi tư duy sản xuất từ truyền thống sang hiện đại, thông minh và bền vững.
Sự chuyển giao công nghệ được thực hiện gắn kết chặt chẽ với việc khai thác các giống cây, con đặc trưng, có giá trị kinh tế cao của từng địa phương. Có thể kể đến việc sản xuất rau, hoa ôn đới mang lại thu nhập ổn định; phát triển giống lê vàng cho năng suất, chất lượng vượt trội; hay sản xuất, chế biến và tiêu thụ lạc, dong riềng, các cây dược liệu quý.
![]() |
Lê là một trong những đặc sản ở Cao Bằng giúp người dân có thu nhập cao khi phát triển theo hướng hàng hóa. |
Ngành nông nghiệp cùng Liên minh HTX tỉnh cũng chú trọng thâm canh cải tạo vùng chè Đoỏng Pán gắn với chế biến sản phẩm OCOP, nghiên cứu công nghệ chế biến từ cây hồi, nhân giống cây mắc ca, phát triển sản phẩm từ quả quýt, quản lý và phát triển nhãn hiệu tập thể gạo nếp Ong, mô hình trồng và chế biến hà thủ ô đỏ, liên kết sản xuất gạo đặc sản nếp hương và các sản phẩm từ hạt dẻ.
Kết quả của những nỗ lực này là sự ra đời của các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, mang đậm bản sắc Cao Bằng, được thị trường đón nhận, góp phần nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động và tính cạnh tranh của sản phẩm.
Từ “cánh đồng nhà” đến “thương hiệu cộng đồng”
Trong quá trình chuyển đổi này, các HTX, tổ hợp tác đã nổi lên như những hạt nhân quan trọng. Với sự đồng hành của cán bộ khuyến nông, kỹ thuật viên cơ sở, Liên minh HTX tỉnh, HTX đã trở thành cầu nối để chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới cho người dân. Họ tư vấn về cơ chế, chính sách, hỗ trợ các thủ tục đăng ký, sở hữu tài sản trí tuệ, giúp nông dân-thành viên HTX chuyển đổi cây trồng vật nuôi, tiếp cận nguồn vốn hỗ trợ, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm của mình.
Minh chứng rõ ràng nhất là việc nhiều sản phẩm nông nghiệp của Cao Bằng đã được cấp chỉ dẫn địa lý, giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể như quýt, hạt dẻ Trùng Khánh, miến dong Nguyên Bình, Trúc sào Cao Bằng… Đây là những bước đi quan trọng để khẳng định chất lượng và giá trị của nông sản Cao Bằng trên thị trường.
Một ví dụ điển hình là HTX Nông nghiệp Trường Anh. Nắm bắt xu thế nông nghiệp thông minh, HTX đã đầu tư hơn 5 tỷ đồng để xây dựng mô hình canh tác hiện đại trên 4 ha, với các loại cây trồng chủ lực gồm dâu tây, ngô ngọt, dưa lưới. HTX trang bị hệ thống máy móc, thiết bị chăm sóc cây trong nhà lưới, bao gồm cảm biến nhiệt độ, hệ thống phun sương tự động, tưới nước nhỏ giọt và tưới châm phân. Điều đặc biệt là HTX chú trọng sản xuất hữu cơ, sử dụng phân hữu cơ sinh học, phân ủ lên men từ trứng, sữa, đậu nành, chuối… để tăng hương vị cho trái cây. Nhờ đó, sản phẩm của HTX được chứng nhận VietGAP và đạt chuẩn OCOP 3 sao, được thị trường ưa chuộng.
![]() |
Nhiều đặc sản ở Cao Bằng được nâng cao giá trị nhờ HTX. |
Tuy số vốn ban đầu bỏ ra lớn nhưng về lâu dài, thành viên HTX Trường Anh sẽ tiết kiệm chi phí nhân công, chủ động về chất lượng sản phẩm. Đặc biệt với hệ thống tưới nhỏ giọt, cây trồng được “ăn” một lượng nước vừa đủ, không gây lãng phí, đem lại hiệu quả cao.
HTX Nông sản Tân Việt Á là mô hình tiêu biểu trong việc sản xuất, thu mua và bao tiêu nông đặc sản như miến dong, bánh chưng, thạch đen, mộc nhĩ, lạp sườn, nấm hương. Ngoài đầu tư máy móc, ứng dụng công nghệ vào sản xuất, sơ chế, chế biến, đóng gói, HTX còn tích cực tham gia các hội chợ thương mại, tiếp cận trực tiếp với người tiêu dùng và làm việc với các nhà phân phối, xuất khẩu. Đặc biệt, việc tận dụng mạng xã hội và sàn thương mại điện tử đã giúp HTX mở rộng kênh tiêu thụ và tăng doanh số đáng kể, từ đó góp phần nâng cao thu nhập và tạo thêm nhiều việc làm cho người dân địa phương.
Hay tại xã Cao Chương, huyện Trà Lĩnh (cũ) cũng đã hình thành tổ hợp tác gồm 10 hộ dân liên kết để trồng lê theo quy trình thống nhất, từ khâu mua giống đến chăm sóc và thu hoạch. Nhờ làm đúng kỹ thuật và chủ động chia sẻ kinh nghiệm, tổ hợp tác này không những giảm được chi phí đầu tư mà còn nâng cao chất lượng lê đặc sản, từ đó đưa loại quả này có giá cao hơn so với sản xuất nhỏ lẻ.
Nâng thu nhập, mở rộng thị trường
Nhờ có các tổ hợp tác, HTX, nhiều nguyên liệu nông sản từng gặp khó khăn về đầu ra, giá thấp, diện tích bị thu hẹp, nay đã có cơ hội phát triển. Chẳng hạn, sau khi xây dựng mô hình bao tiêu, diện tích nếp hương tại Bảo Lạc đã tăng khoảng 5-6 lần, đạt 165-170 ha/vụ, năng suất bình quân 3,2 tấn/ha, giá bán cao gần gấp 2-3 lần so với lúa lai, mang lại thu nhập tốt cho nông dân. Hay như cây dong riềng ở xã Nguyễn Huệ (huyện Hòa An cũ) từng có thời điểm bị bỏ hoang, nay đã phát triển trở lại nhờ các HTX sản xuất và thu mua.
Tiêu biểu như nhờ sự hỗ trợ của ngành nông nghiệp, mô hình trồng lê của tổ hợp tác ở xã Cao Chương (cũ) đã giúp một số hộ dân đạt mức thu nhập từ 100 đến 300 triệu đồng/năm, tùy quy mô vườn và chất lượng sản phẩm.
Chị Nông Thị Thơm, một hộ dân trồng lê tại xã Cao Chương (cũ), chia sẻ trước đây gia đình chị chỉ trồng vài chục gốc lê, thu nhập không ổn định. Từ khi tham gia tổ hợp tác, được hỗ trợ kỹ thuật và đầu ra, vườn lê gần 1ha của gia đình mỗi năm cho thu trên 4 tấn, bán được hơn 100 triệu đồng.
Việc trồng lê không chỉ giúp người dân cải thiện đời sống kinh tế mà còn góp phần phát triển thương hiệu nông sản vùng cao, mở ra hướng đi bền vững trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo. Cây lê giờ đây không chỉ là trái ngọt, mà còn là “trái vàng” trong hành trình làm giàu của nhiều hộ gia đình ở Cao Bằng.
Hay mô hình sản xuất của HTX Tâm Hòa nổi tiếng với sản phẩm lạp sườn đặc sản, được Bộ Công Thương công nhận là sản phẩm công nghiệp nông thôn tiêu biểu cấp quốc gia, đạt OCOP 4 sao đã có mặt tại hơn 500 đại lý, chuỗi siêu thị trên toàn quốc giúp tạo việc làm và thu nhập cho hàng chục lao động địa phương.
Đặc biệt, các HTX, đơn vị kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc sản xuất sản phẩm thô mà còn hướng đến chế biến sâu, đa dạng hóa sản phẩm để nâng cao giá trị và kéo dài thời gian bảo quản. Nhiều sản phẩm OCOP của Cao Bằng đã khẳng định được vị thế trên thị trường, như Miến dong Tân Việt Á, Thạch đen Lê Thùy, Hồng trà, Lục trà của Công ty TNHH Kolia đã có mặt tại các hệ thống siêu thị lớn nhỏ trong và ngoài tỉnh, thậm chí xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Australia. HTX Nông nghiệp hữu cơ Hồng Phát cũng đã xuất khẩu trà túi lọc và các nông sản sấy khô sang Thái Lan và Vương quốc Anh.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp tỉnh, những HTX nông nghiệp không chỉ nâng cao thu nhập cho người dân nhờ giá bán cao và sản lượng ổn định, mà còn tạo công ăn việc làm lâu dài, đưa nông sản chất lượng ra thị trường trong và ngoài tỉnh. Mô hình liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ đã giúp giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống cho nhiều hộ nông dân tại Cao Bằng, đồng thời đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội địa phương.
Tùng Lâm