Theo kết quả tổng rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo giai đoạn 2022-2025, trên địa bàn huyện Đại Từ ghi nhận 4.022 hộ nghèo và 3.063 hộ cận nghèo. Đây là một con số không nhỏ, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ và hiệu quả để cải thiện đời sống cho người dân. Nhận thức rõ điều này, huyện Đại Từ đã đặt ra mục tiêu giảm nghèo đầy tham vọng và kiên quyết thực hiện.
Mục tiêu giảm nghèo quyết liệt với lực kéo HTX
Những nỗ lực không ngừng nghỉ đã mang lại trái ngọt. Trong giai đoạn 2022-2024, tỷ lệ hộ nghèo của huyện Đại Từ đã giảm từ 7,84% xuống còn 2,23% vào cuối năm 2024. Đáng chú ý, bình quân mỗi năm tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,87%, vượt xa kế hoạch của UBND huyện (1,2%/năm).
Con số ấn tượng này không chỉ thể hiện sự quyết tâm của chính quyền mà còn là minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả của các chính sách và mô hình phát triển kinh tế, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế tập thể.
Trước đây, phần lớn bà con nông dân ở Đại Từ có thu nhập bấp bênh, đời sống khó khăn. Tuy nhiên, sự xuất hiện và phát triển của các HTX đã thay đổi hoàn toàn bức tranh này.
HTX không chỉ là một tổ chức kinh tế mà còn là cầu nối quan trọng, tập hợp những người nông dân có cùng chí hướng, cùng sản xuất, cùng tiêu thụ sản phẩm.
![]() |
Chè là một trong những cây trồng chủ lực ở Đại Từ. |
Thông qua HTX, bà con được hưởng nhiều lợi ích vượt trội như tiếp cận khoa học kỹ thuật, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị; bao tiêu sản phẩm và mở rộng thị trường, hỗ trợ vốn và vật tư.
Đặc biệt, hoạt động của HTX không chỉ dừng lại ở sản xuất nông nghiệp mà còn mở rộng sang chế biến, dịch vụ, tạo thêm nhiều việc làm cho lao động địa phương, đặc biệt là phụ nữ và thanh niên, giúp họ có thu nhập ổn định hơn, không phải rời quê đi làm ăn xa.
Tiêu biểu như HTX chè La Bằng (xã La Bằng) đang liên kết sản xuất với hơn 200 hộ dân ở 6 xóm trong xã (gồm: Non Bẹo, La Cút, Đồng Tiến, Rừng Vần, Tân Sơn và Đồng Đình) để sản xuất và chế biến chè đặc sản. Việc liên kết này mang lại rất nhiều lợi ích, trong đó HTX quản lý được quy trình chăm sóc, thu hái chè của các hộ để cho ra thị trường những sản phẩm trà đảm bảo chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm. Đặc biệt, do liên kết với các hộ dân nên HTX luôn chủ động được nguồn nguyên liệu, không bị động trước những đơn hàng lớn…
Không dừng lại ở đó, HTX La Bằng đã ứng dụng công nghệ hiện đại vào quy trình sao sấy, đóng gói, tạo ra những sản phẩm chè chất lượng cao, có thương hiệu, được người tiêu dùng ưa chuộng. Các thành viên HTX được hướng dẫn canh tác chè theo tiêu chuẩn , đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Nhờ đó, giá trị chè La Bằng được nâng cao đáng kể, mang lại thu nhập ổn định cho bà con.
Còn HTX chè Tuất Thoi (xã Phú Xuyên) đang phát triển chè sản xuất theo tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam. Sau thời gian áp dụng quy trình sản xuất hữu cơ, đến nay, cây chè đã sinh trưởng và ổn định về năng suất (bình quân mỗi năm đạt gần 129 tạ búp tươi/ha), chất lượng thay đổi rõ rệt.
Sau 4 năm, mô hình chè hữu cơ của HTX đạt các tiêu chí của tiêu chuẩn hữu cơ Việt Nam và được cấp giấy chứng nhận hữu cơ. Đặc biệt, trong quá trình sản xuất, HTX được Liên minh HTX tỉnh hỗ trợ khoa học kỹ thuật, phân thuốc, tạo điều kiện cho HTX nâng từ 5 ha đã được chứng nhận hữu cơ lên 10ha.
Các sản phẩm chính của HTX Tuất Thoi bao gồm Phú Đinh Trà, Trà Tôm nõn, Nhụy Hương Trà, và Tuyết Bảo Trà. Việc đầu tư sản xuất chè hữu cơ không chỉ giúp nâng cao giá bán, đáp ứng nhu cầu thị trường mà còn tạo thêm nhiều việc làm cho người dân, giúp tăng cường chuỗi giá trị kinh tế tổng thể của xã.
Bên cạnh cây chè, Đại Từ còn phát triển các mô hình HTX chuyên về chăn nuôi gia súc, gia cầm và trồng cây ăn quả như bưởi, cam. Các HTX này tập trung vào việc áp dụng quy trình chăn nuôi an toàn sinh học, trồng trọt theo hướng hữu cơ, tạo ra sản phẩm sạch, có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Trợ lực kịp thời
Trong công cuộc giảm nghèo và phát triển HTX không thể không nhắc đến vai trò quan trọng của cấp ủy, chính quyền địa phương và các tổ chức liên quan. Huyện đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển kinh tế tập thể, tạo môi trường thuận lợi cho các HTX hoạt động.
Trong đó, huyện đã phối hợp chặt chẽ với Liên minh HTX tỉnh Thái Nguyên tổ chức các lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý, kỹ thuật sản xuất cho cán bộ HTX và thành viên đồng thời tạo điều kiện cho HTX tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, các quỹ phát triển.
![]() |
HTX chè La Bằng đi đầu trong sản xuất và chế biến chè theo chuỗi giá trị. |
Nhiều HTX đã được hỗ trợ tham gia các hội chợ, triển lãm, kết nối với các đối tác tiêu thụ lớn giúp mở rộng đầu ra. Việc đầu tư nâng cấp hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX và người dân phát triển sản xuất và vận chuyển hàng hóa.
Cùng với sự hỗ trợ từ chính quyền, điều quan trọng nhất là sự đồng thuận và nỗ lực của chính người dân, thành viên HTX. Bà con nông dân, thành viên HTX đã thay đổi tư duy từ sản xuất manh mún sang liên kết, hợp tác, mạnh dạn ứng dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Phụ nữ và thanh niên cũng ngày càng chủ động tham gia các hoạt động của HTX, góp phần vào sự phát triển chung của cộng đồng.
Bài học thành công của Đại Từ
Câu chuyện giảm nghèo ở Đại Từ thông qua mô hình HTX mang lại nhiều bài học quý giá cho các địa phương khác. Đó là việc quan tâm phát huy nội lực, khai thác thế mạnh địa phương. Cụ thể là Đại Từ đã nhận diện và phát huy tối đa tiềm năng về nông nghiệp, đặc biệt là cây chè, để xây dựng các mô hình HTX phù hợp.
Nếu như trước đây, chè được xác định là cây xóa đói giảm nghèo, thì nay đã trở thành cây trồng chủ lực, giúp người dân làm giàu. Sản lượng chè búp tươi của Đại Từ đạt khoảng 80.000-90.000 tấn, giá trị sản phẩm thu được trên 1ha chè đạt gần 500 triệu đồng; trong tổng số 44 sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP của địa phương thì chè chiếm đến 80%... Toàn huyện có 6 HTX chè đã đăng ký mã vạch, tem truy xuất nguồn gốc cho sản phẩm, khoảng 11 HTX thiết kế logo, bao bì, nhãn mác... cho sản phẩm chè.
Ngoài xác định đúng cây trồng chủ lực, huyện còn xác định HTX là một mô hình hiệu quả giúp tập hợp sức mạnh của nhiều cá nhân, tạo ra quy mô sản xuất lớn hơn, chuyên nghiệp hơn và tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Từ đây, việc thường xuyên cập nhật và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất là yếu tố then chốt để nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị sản phẩm.
Đặc biệt, việc sản xuất gắn với thị trường, từ khâu nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm giúp đảm bảo đầu ra ổn định cho nông dân, thành viên HTX.
Với tỷ lệ hộ nghèo giảm ấn tượng và sự phát triển mạnh mẽ của các HTX, Đại Từ đang vững bước trên con đường phát triển bền vững. Các mô hình HTX không chỉ giúp người dân thoát nghèo mà còn góp phần nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần của cộng đồng.
Trong tương lai, Đại Từ sẽ tiếp tục củng cố và nhân rộng các mô hình HTX hiệu quả, đồng thời khuyến khích hình thành các HTX mới với đa dạng ngành nghề, ứng dụng công nghệ cao và liên kết chặt chẽ hơn với thị trường. Huyện cũng sẽ chú trọng đến việc phát triển du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng để khai thác thêm tiềm năng, tạo nguồn thu nhập mới cho người dân.
Minh Nhương