Cơ hội lớn nhưng chưa được khai thác đúng mức
Theo báo cáo tại Diễn đàn “Kết nối sản xuất và tiêu thụ nông sản các tỉnh vùng Bắc Trung Bộ” do Bộ Nông nghiệp và Môi trường tổ chức ngày 6/8, vùng Bắc Trung Bộ có hàng triệu héc-ta đất nông lâm nghiệp, được quy hoạch là vùng trọng điểm nông nghiệp trong chiến lược phát triển quốc gia.
Trong giai đoạn 2020 - 2025, nhiều địa phương như Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa đã xây dựng đề án phát triển nông nghiệp thích ứng biến đổi khí hậu. Đặc biệt, ba loại cây chủ lực gồm dứa, chè và cây có múi đã đạt diện tích hơn 28.600 ha, cho sản lượng khoảng 400.000 tấn mỗi năm. Đây là nền tảng quan trọng để hình thành các chuỗi giá trị nông sản quy mô, góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững.
![]() |
Với hàng triệu héc-ta đất nông lâm nghiệp, Bắc Trung Bộ từ lâu được xác định là vùng trọng điểm trong chiến lược phát triển nông nghiệp quốc gia. |
Tại tỉnh Thanh Hóa, địa phương có diện tích trồng dứa và cây ăn quả lớn của vùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Đức Cường cho biết tỉnh đã ban hành Nghị quyết 185/2021/NQ-HĐND nhằm hỗ trợ phát triển cây ăn quả và các cây trồng chủ lực, đồng thời mở rộng quy hoạch vùng trồng, kêu gọi đầu tư, xúc tiến thương mại và phát triển thị trường tiêu thụ. Tuy nhiên, như ông Cường nhấn mạnh, những nỗ lực của địa phương là chưa đủ nếu thiếu đi sự hỗ trợ mạnh mẽ, đồng bộ từ các bộ ngành trung ương và các nhà khoa học, doanh nghiệp.
Dù vậy, ông Cường thẳng thắn thừa nhận, việc đầu tư của doanh nghiệp và hợp tác xã vào sản xuất còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa tương xứng với tiềm năng. Tình trạng “được mùa rớt giá” hay dư thừa nguyên liệu nhưng thiếu đầu ra vẫn xảy ra, đe dọa sinh kế của người nông dân và hiệu quả hoạt động của HTX.
Song song với tín hiệu tích cực, những thách thức cũng rất rõ ràng: biến đổi khí hậu, hạ tầng thủy lợi và logistics yếu kém, thị trường biến động khó lường, tư duy sản xuất nhỏ lẻ và thiếu liên kết... Tất cả đều đang là những “nút thắt” kìm hãm sự phát triển bền vững của nông nghiệp vùng.
Kỳ vọng từ cây trồng thế mạnh
Một trong những điểm sáng đáng chú ý nhất hiện nay là cây dứa, loại cây được các chuyên gia đánh giá có khả năng “vươn ra thế giới” nếu được đầu tư đúng hướng. Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc DOVECO, nhận định dứa không chỉ có năng suất cao, phù hợp điều kiện khí hậu khô hạn, mà còn có khả năng canh tác quanh năm, ít phụ thuộc mùa vụ như cam, nhãn hay xoài.
“Dứa là cây ăn quả có thể xuất khẩu mạnh. Nếu được quy hoạch bài bản, cây dứa hoàn toàn có thể trở thành mũi nhọn trong chiến lược nâng tầm nông sản vùng Bắc Trung Bộ”, ông Khuê khẳng định.
Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng đầu tư vào cây dứa không thể dừng ở mở rộng diện tích. Thực tế cho thấy nhiều hộ dân ồ ạt trồng dứa nhưng không có phương án tiêu thụ, không liên kết với doanh nghiệp chế biến, dẫn đến cảnh “được mùa rớt giá”. Chất lượng dứa cũng không đồng đều do nông dân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, thiếu hỗ trợ kỹ thuật.
“Chúng tôi sẵn sàng ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm với các hợp tác xã, tổ hợp tác và nông dân, nhưng cần chính quyền địa phương hỗ trợ hạ tầng, giống và kỹ thuật trong giai đoạn đầu để nông dân yên tâm chuyển đổi”, ông Khuê nói.
Bà Bùi Thị Hồng Hà, đại diện Trung tâm Nông nghiệp Hữu cơ thuộc Học viện Nông nghiệp Việt Nam, cũng bày tỏ nhiều trăn trở khi nông dân mở rộng diện tích dứa nhưng chưa có phương án tiêu thụ bền vững.
Theo bà Hà, cây dứa có nhiều lợi thế để phát triển tại các tỉnh Bắc Trung bộ, đặc biệt là trên những chân đất chuyển đổi từ lúa kém hiệu quả hoặc vùng gò đồi thiếu nước tưới. Đây là cây trồng phù hợp với điều kiện khô hạn, có thể cho thu nhập cao hơn so với lúa hay cây công nghiệp ngắn ngày. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cần bền vững, tránh mang tính tự phát, thiếu liên kết giữa người trồng với doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Dù là cây trồng tiềm năng, nhưng nếu không gắn cây dứa với thị trường thì nông dân sẽ rơi vào cảnh được mùa mất giá. Nhiều hộ dân trồng dứa chỉ dựa vào kinh nghiệm, chưa nắm chắc kỹ thuật nên chất lượng không đồng đều, khó vào được chuỗi xuất khẩu chính ngạch.
Trên cơ sở đó, bà Hà cho rằng những hộ dân chuyển đổi rất cần các doanh nghiệp đầu tư vào vùng nguyên liệu, nhằm tạo ra chính sách khuyến khích đủ mạnh, hạ tầng kho bãi, giao thông.
![]() |
Các chuyên gia nhấn mạnh vai trò của liên kết bốn nhà - Nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, doanh nghiệp - trong xây dựng các chuỗi giá trị bền vững với nông sản và trái cây tại địa phương. |
Trái với cây dứa đang lên, cây có múi như cam, quýt, từng là thế mạnh của vùng, đang suy giảm nghiêm trọng do ảnh hưởng của bệnh Greening (vàng lá gân xanh) và tình trạng thoái hóa giống. Nhiều hộ dân buộc phải phá bỏ vườn cây, mất trắng vốn đầu tư, tái nghèo.
Nhằm khôi phục cây có múi, một số tổ chức Hội đã chủ động kết nối với các tổ chức khoa học quốc tế để triển khai dự án hỗ trợ kỹ thuật, giống sạch bệnh và quy trình canh tác thích ứng. Theo PGS.TS Lê Quốc Doanh, nguyên Thứ trưởng Bộ NN&PTNT, nếu triển khai bài bản, đây sẽ là hướng đi quan trọng để đa dạng hóa cây trồng chủ lực và góp phần giảm nghèo đa chiều.
“Phải thay đổi tư duy từ sản xuất sang kinh tế nông nghiệp. Nông dân cần được hỗ trợ kiến thức, kỹ năng sản xuất gắn với thị trường. Hợp tác xã phải là trung tâm dịch vụ, liên kết tiêu thụ. Doanh nghiệp không chỉ mua sản phẩm, mà còn đầu tư vào vùng nguyên liệu, chế biến sâu. Và Nhà nước cần tạo điều kiện về đất đai, tín dụng, chính sách”, ông Doanh nhấn mạnh.
Thực tế, nhiều hộ nghèo và cận nghèo tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa đã được tiếp cận các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, vay vốn ưu đãi thông qua kênh của các HTX nông nghiệp. Không ít hợp tác xã đã chuyển đổi sang mô hình sản xuất gắn chuỗi, hợp tác với doanh nghiệp chế biến như DOVECO, giúp nông dân nâng cao giá bán, ổn định đầu ra.
Hợp tác xã: “cầu nối” then chốt trong chuỗi giá trị
Trong bối cảnh nông dân nhỏ lẻ khó tự vươn ra thị trường lớn, HTX trở thành “chiếc cầu nối” hiệu quả giữa nông dân với doanh nghiệp, nhà khoa học và cơ quan quản lý. Một số mô hình HTX tiêu biểu như HTX Dịch vụ nông nghiệp Quỳnh Châu (Nghệ An), HTX Nông nghiệp Thái Sơn (Thanh Hóa) hay HTX Dứa Đồng Giao (Ninh Bình, liên kết sản xuất tại Bắc Trung Bộ) đã chứng minh tính ưu việt của liên kết sản xuất theo chuỗi.
HTX tổ chức lại sản xuất theo hướng tập trung vùng nguyên liệu, áp dụng kỹ thuật mới vào canh tác, phổ biến quy trình chăm sóc theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP… Đồng thời, HTX đứng ra ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với doanh nghiệp, giúp nông dân yên tâm sản xuất, tránh bị thương lái ép giá. Đây chính là yếu tố góp phần giảm nghèo hiệu quả, đặc biệt ở những vùng sâu, vùng xa, nơi người dân ít tiếp cận với thông tin và thị trường.
Liên kết “4 nhà” được các chuyên gia nông nghiệp đánh giá là lời giải cho bài toán nâng cao năng suất, giá trị nông sản và giảm nghèo bền vững. Tuy nhiên, để liên kết này thực sự hiệu quả, cần một chiến lược dài hơi và sự cam kết từ tất cả các bên.
Trước hết, Nhà nước cần có cơ chế khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, hỗ trợ tín dụng cho HTX và nông dân, hoàn thiện hạ tầng thủy lợi, giao thông, kho bãi. Nhà khoa học cần tiếp tục chuyển giao công nghệ, giống cây trồng phù hợp, tư vấn quy trình canh tác bền vững. Doanh nghiệp cần đóng vai trò dẫn dắt thị trường, chia sẻ rủi ro với nông dân, tăng cường chế biến sâu và xây dựng thương hiệu sản phẩm. Hợp tác xã và hộ nông dân cần nâng cao nhận thức, chủ động tham gia liên kết, hướng đến sản xuất chuyên nghiệp, bền vững.
Giảm nghèo thông qua phát triển nông nghiệp không còn là lý thuyết suông. Các mô hình liên kết sản xuất, tiêu thụ hiệu quả, chuỗi giá trị được hình thành ổn định đang tạo ra bước chuyển mình rõ rệt ở nhiều xã nghèo vùng đồi núi Bắc Trung Bộ.
Những HTX hoạt động bài bản, có sự đồng hành của doanh nghiệp và nhà khoa học, đang giúp nông dân tiếp cận thị trường, cải thiện kỹ năng và nâng cao giá trị sản phẩm. Một hộ dân đơn lẻ trồng dứa hay chè khó có thể vươn ra thị trường ngoại, nhưng khi tham gia vào chuỗi giá trị và có sự hỗ trợ liên ngành, kết quả kinh tế có thể tăng gấp nhiều lần.
Bắc Trung Bộ, vùng đất từng bị đánh giá là “khó làm nông nghiệp”, đang dần thay đổi nhờ những mô hình sản xuất hiệu quả, liên kết bền vững. Hàng trăm hộ nông dân thoát nghèo, nhiều xã chuyển mình trở thành vùng trọng điểm nông nghiệp là minh chứng rõ ràng cho tiềm năng phát triển nơi đây.
“Càng khó, càng cần làm khác biệt. Chính sự khác biệt sẽ tạo nên cơ hội”, phát biểu của PGS.TS Lê Quốc Doanh không chỉ là kim chỉ nam cho phát triển nông nghiệp Bắc Trung Bộ mà còn là thông điệp hành động cho cả hệ thống chính trị trong công cuộc giảm nghèo, phát triển nông thôn bền vững.
Hồng Hương