Bàn về tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, đại diện Công ty TNHH Pizza Việt Nam (Pizza Hut) đã đề xuất các cơ quan hữu quan nên có hướng dẫn nội bộ cho đoàn kiểm tra, thẩm định trực thuộc của mình cũng như các cơ quan khác có liên quan nhằm thống nhất việc áp dụng pháp luật đối với các nội dung doanh nghiệp (DN) thường đặt câu hỏi và đã được xác nhận, hoặc các trường hợp quy định chưa có hướng dẫn cụ thể.
Hệ lụy nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh
Chẳng hạn, theo đại diện Pizza Hut, vấn đề vướng mắc, bất cập trong Nghị định 15/2018/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành của luật An toàn thực phẩm là ở chỗ nguyên liệu doanh nghiệp (DN) tự nhập khẩu về dùng làm nguyên liệu cho sản xuất nội bộ. DN đang hiểu là sẽ được miễn hồ sơ tự công bố và nhãn phụ đối với các nguyên liệu nhập khẩu này, đã gửi câu hỏi và có xác nhận của cơ quan nhà nước như Sở An toàn thực phẩm về việc trường hợp này được miễn hồ sơ tự công bố và miễn nhãn phụ theo quy định nêu trên.
![]() |
Mối lo của các DN thực phẩm là khâu hoạch định chính sách liên quan đến quản lý thực phẩm đưa ra thêm nhiều thủ tục phức tạp, thời gian kéo dài có thể gây hệ lụy nghiêm trọng đến sản xuất kinh doanh. |
“Tuy nhiên, một số đoàn kiểm tra vẫn yêu cầu DN phải thực hiện hồ sơ tự công bố, nhãn phụ dù đã xuất trình văn bản xác nhận”, phía Pizza Hut phản ánh.
Còn trong góp ý mới đây về dự thảo thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 15/2018/NĐ-CP, ông Nguyễn Hồng Uy, Trưởng nhóm kỹ thuật Tiểu ban thực phẩm và dinh dưỡng (NFG) thuộc Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), đã bày tỏ lo ngại trước một số bất cập trong dự thảo này. Nhất là đã đưa ra nhiều thủ tục hành chính phức tạp về đăng ký thực phẩm như dược phẩm, một số yêu cầu còn khó hơn.
Cụ thể, nội dung hồ sơ đăng ký tăng từ 7 mục lên 41 mục (tăng gần 600%), nhiều yêu cầu bất hợp lý. Như ở Mẫu 04, mục VIII: Tài liệu về quy trình sản xuất: Yêu cầu mô tả chi tiết quy trình sản xuất, loại máy, thiết bị kèm thông số. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ làm lộ bí mật kỹ thuật.
Không chỉ vậy, thời gian thẩm định hồ sơ đăng ký tăng gần 1.400% (từ 7 ngày lên 90 ngày). Về thủ tục tự công bố từ 1 ngày lên 21 ngày, tăng 2.100%, chỉ để đăng tải lên hệ thống, sau đó mới lên kế hoạch rà soát. Hoặc như thời gian kiểm tra hàng hóa nhập khẩu từ 3 và 7 ngày lên 7 và 15 ngày (tăng hơn 200%).
Theo ông Uy, bất cập trong dự thảo nêu trên còn nằm ở việc tất cả thực phẩm quản lý bởi Bộ Y tế đều phải đăng ký, dẫn đến số lượng sản phẩm phải đăng ký tăng khoảng 50%, do nhóm thực phẩm bổ sung phải chuyển từ tự công bố sang đăng ký (khoản 19), bao gồm cả các sản phẩm đơn giản như muối iốt.
Đó là chưa kể còn tăng thêm 1 thủ tục hành chính mới khi yêu cầu các sản phẩm đã đăng ký và đang lưu hành bình thường cũng phải bổ sung hồ sơ theo quy định mới trong vòng 18 tháng.
Trong khi đó, ông Uy lưu ý hậu kiểm chưa theo quản lý rủi ro. Đơn cử như hậu kiểm thực phẩm bảo vệ sức khỏe 3 năm/1 lần, trong khi các thực phẩm khác 1 năm/1 lần.
Hơn nữa, việc quản lý thực phẩm cũng không phù hợp với quốc tế. Các nước tiên tiến như Hoa Kỳ, EU, Nhật, Hàn quốc, Australia…chủ yếu quản lý thực phẩm theo phương thức hậu kiểm và đánh giá rủi ro, không yêu cầu đăng ký trước với đa số thực phẩm, ngoại trừ Nhật và Hàn quốc có yêu cầu đăng ký đối với thực phẩm bảo vệ sức khỏe.
Vị trưởng nhóm kỹ thuật Tiểu ban thực phẩm và dinh dưỡng của EuroCham cũng chỉ ra hậu quả rất nghiêm trọng đối với sản xuất kinh doanh từ việc tăng thời gian thực hiện thủ tục hành chính đối với quản lý thực phẩm.
Đơn cử như sữa tươi là thực phẩm tự công bố, trước đây chỉ cần 1 ngày để tiếp nhận hồ sơ, nay cần tới 21 ngày, trong khi sữa tươi thanh trùng chỉ có hạn dùng 10 ngày. Nếu đợi tiếp nhận công bố 21 ngày mới được sản xuất thì sữa thiu thối hết.
Phải tăng hậu kiểm thực chất
Hay như sữa tiệt trùng bổ sung vitamin A và D, trước là thực phẩm bổ sung, nay phải chuyển sang đăng ký. Theo ông Nguyễn Hồng Uy, dự thảo không cho thời gian chuyển tiếp với nhóm phải chuyển hình thức đăng ký này. Vì vậy khi nghị định có hiệu lực, nhà máy sẽ phải đóng cửa cả năm trời vì phải chờ đăng ký xong sản phẩm dù trước đó vẫn đang hoạt động bình thường (chuẩn bị hồ sơ theo yêu cầu mới phải mất nhiều tháng, 3 tháng mới được thẩm định, bổ sung giấy tờ mất vài tháng, được cấp giấy phép cũng mất vài tháng nữa).
Hoặc như các thực phẩm đã được cấp số đăng ký, đang lưu hành bình thường, nhưng lại phải nộp bổ sung hồ sơ theo quy định mới (quy định hồi tố). Việc chuẩn bị hồ sơ theo quy định mới rất nhiêu khê, tốn kém nhiều tiền của và thời gian; có nguy cơ gây đứt gãy sản xuất-kinh doanh hiện hành, làm tăng giá thành sản phẩm.
“Cùng với đó, việc đăng ký các sản phẩm mới sẽ rất khó khăn và kéo dài, ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của kinh tế”, ông Uy nói.
Một câu hỏi được đặt ra là liệu việc tăng thủ tục hành chính với quản lý thực phẩm có hiệu quả hay không, nhất là trước tình trạng thực phẩm giả, hàng kém chất lượng luôn có diễn biến phức tạp.
Như lưu ý của Ts. Nguyễn Mạnh Hùng, chuyên gia Quản lý chuỗi cung ứng và logistics, hàng giả thường xuất hiện ở các kênh phân phối phi chính thức mà khung pháp lý chưa đủ mạnh để xử lý vi phạm. Hơn nữa, chống hàng giả trong quản lý chuỗi cung ứng sản phẩm thiết yếu đang gặp khó khăn do chi phí cao và hàng giả ngày càng tinh vi khiến việc xác minh nguồn gốc khá phức tạp.
Tuy nhiên, ngoài khung pháp lý chưa đủ mạnh để xử lý vi phạm thì việc tăng thủ tục hành chính với quản lý thực phẩm trên thực tế vẫn chưa cho thấy tính hiệu quả. Theo giới chuyên gia, những kẻ đã làm giả được sản phẩm thì không có khó khăn gì để chúng làm giả cả hồ sơ, do đó tăng thủ tục hành chính về cấp phép có rất ít hiệu quả.
Điều đáng nói, việc tăng thủ tục được xem như một hình thức tăng tiền kiểm nhưng nửa vời (chỉ tiền kiểm hồ sơ). Trong khi đó, đa số những thực phẩm giả được phát hiện vừa qua đã được cơ quan quản lý cấp giấy phép, điều đó chứng tỏ cấp phép mà không hậu kiểm thì hầu như vô giá trị.
Các nhà hoạch định chính sách cũng nên suy ngẫm từ các vụ hàng giả, hàng kém chất lượng trong ngành thực phẩm được phát hiện trong thời gian gần đây để thấy rằng nguyên nhân chính là do thiếu hậu kiểm, hoặc có hậu kiểm nhưng bỏ qua vi phạm do có tiêu cực. Do đó, cần phải tăng cường hậu kiểm. Để hậu kiểm hiệu quả, phải theo kinh nghiệm của các nước tiên tiến là hậu kiểm theo quản lý rủi ro và nên thay đổi tư duy “tăng thủ tục” để không làm khó DN thực phẩm.
Thế Vinh