Vài năm trở về trước, nhắc đến Lục Bình là nhắc đến một xã nghèo, nơi người dân, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số, quanh năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" nhưng cái đói, cái nghèo vẫn dai dẳng bám riết.
Đánh thức tiềm năng quê hương
Nền kinh tế của xã gần như đóng băng trong vòng tuần hoàn của sản xuất tự cung tự cấp. Người dân vẫn duy trì tập quán canh tác cũ, manh mún, nhỏ lẻ. Việc tiếp cận với khoa học kỹ thuật, với những mô hình sản xuất mới là một điều "xa xỉ". Vòng luẩn quẩn của trồng ngô, trồng lúa chỉ đủ ăn khiến cho bức tranh kinh tế Lục Bình ảm đạm, thiếu vắng những gam màu đột phá.
Tuy nhiên, ẩn sau vẻ ngoài đó, Lục Bình lại sở hữu những tiềm năng mà không phải nơi nào cũng có. Đó là diện tích đất nông, lâm nghiệp rộng lớn, là nguồn lao động tại chỗ dồi dào do ít có sự dịch chuyển ra các khu công nghiệp bên ngoài. Quan trọng hơn, điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng đặc thù lại phù hợp với nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao. Một "mỏ vàng" khác thường bị bỏ qua chính là nguồn phế, phụ phẩm nông nghiệp khổng lồ như rơm, rạ, mùn cưa, lõi ngô – thứ tưởng chừng như rác thải lại có thể trở thành nguyên liệu đầu vào cho một ngành sản xuất có giá trị cao.
Những tiềm năng ấy cứ "ngủ quên" cho đến khi có một người quyết tâm "đánh thức". Người đó là chị Lường Thị Giang, một người con của chính mảnh đất Lục Bình.
![]() |
Nấm là cây trồng chính của HTX. |
Khác với nhiều người dân chỉ quen với ruộng đồng, chị Lường Thị Giang sớm nhận ra những thế mạnh chưa được khai phá của quê mình. Chị trăn trở: "Tại sao quê mình có đất đai, có nhân lực, có cả nguồn nguyên liệu dồi dào từ phế phẩm nông nghiệp mà vẫn nghèo?". Câu hỏi đó đã thôi thúc chị tìm một hướng đi mới, một con đường có thể biến những thứ bỏ đi thành sản phẩm hàng hóa có giá trị.
Sau nhiều tìm tòi, chị nhận thấy mô hình trồng các loại nấm ăn và nấm dược liệu là câu trả lời hoàn hảo nhất. Nó không chỉ tận dụng được nguồn phế phẩm tại chỗ mà còn phù hợp với điều kiện khí hậu và cho ra sản phẩm có giá trị kinh tế cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Nghĩ là làm, năm 2016, chị Giang bắt đầu hành trình khởi nghiệp đầy gian nan. Chị không quản ngại đường sá xa xôi, một mình tìm đến những "thủ phủ" trồng nấm nổi tiếng cả nước như Hưng Yên, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, Hà Nội để tham quan, học hỏi. Chị chủ động gõ cửa Trung tâm nấm thuộc Viện Di truyền Nông nghiệp Việt Nam, một trong những cái nôi hàng đầu về công nghệ nấm, để xin học tập và nhận chuyển giao công nghệ.
Kiến thức đã có, quyết tâm đã đủ, cuối năm 2016, chị Giang mạnh dạn đầu tư dự án trồng nấm đầu tiên với 3.000 bịch phôi nấm Hoàng Đế. May mắn, lứa nấm đầu tiên cho kết quả khả quan, nhưng chị nhanh chóng nhận ra nhu cầu thị trường với nấm rơm lớn hơn. Năm 2017, chị quyết định chuyển hướng sang nuôi trồng nấm rơm và bước đầu gặt hái thành công.
Tuy nhiên, chị Giang hiểu rằng, nếu chỉ sản xuất cá thể, nhỏ lẻ thì mãi mãi không thể lớn được. Quy mô sẽ bị giới hạn, khó tạo ra sản phẩm hàng hóa đồng đều, chất lượng và càng khó xây dựng thương hiệu để vươn ra thị trường lớn. Một tư duy sản xuất lớn đã hình thành: phải liên kết lại, phải đi theo con đường kinh tế tập thể.
Tháng 1/2018, dấu mốc quan trọng đã đến. Chị Giang vận động, liên kết với 10 hộ dân khác ở thôn Nà Nghịu, xã Lục Bình, chính thức thành lập HTX Dịch vụ nông nghiệp Hợp Giang. Sứ mệnh của HTX được xác định rõ ràng ngay từ đầu: sản xuất nấm ăn, nấm dược liệu thương phẩm, mang tính chất hàng hóa để chinh phục thị trường, trước mắt là Bắc Kạn và xa hơn là các tỉnh, thành phố khác.
"Quả ngọt" từ tư duy kinh tế hàng hóa
Sự ra đời của HTX Hợp Giang đã tạo ra một đòn bẩy mạnh mẽ trong phát triển kinh tế nông nghiệp tại địa phương. Từ một cơ sở sản xuất nhỏ, Hợp Giang nhanh chóng mở rộng quy mô một cách ấn tượng.
Năm 2018, HTX bắt đầu sản xuất nấm rơm trên diện tích nhà xưởng 700m², tạo việc làm thường xuyên cho 8 lao động. Sau đó, trước tín hiệu tích cực của thị trường, HTX mạnh dạn mở rộng nhà xưởng lên 1.500m², đồng thời đầu tư thêm trang thiết bị, máy móc hiện đại để sản xuất các dòng sản phẩm đa dạng hơn như nấm Sò, Mộc nhĩ, Linh chi.
![]() |
Đầu tư chế biến giúp nâng cao giá trị kinh tế. |
Đến nay, sau hơn 7 năm hình thành và phát triển, quy mô của HTX Hợp Giang đã là một con số đáng mơ ước ở một xã miền núi: tổng diện tích mặt bằng sản xuất lên đến 6.000m², bao gồm khu nhà điều hành 640m² và khu nhà xưởng sản xuất 5.360m². HTX đang tạo việc làm ổn định cho 16 lao động thường xuyên, trong đó có 3 người trình độ Đại học, 2 người trình độ Cao đẳng và 11 lao động phổ thông, chưa kể hàng chục lao động thời vụ khác. Việc thu hút được nhân lực có trình độ cho thấy hướng đi chuyên nghiệp và tầm nhìn xa của Hội đồng quản trị HTX.
Sản phẩm của HTX Hợp Giang giờ đây không chỉ là những cây nấm tươi. Danh mục sản phẩm đã được đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường và tối đa hóa giá trị: nấm sò tươi, mộc nhĩ (nguyên tai, thái sợi), nấm linh chi khô (nguyên tai, thái lát), trà linh sâm, giò nấm, nấm hương... Đặc biệt, HTX đã trở thành đơn vị có số sản phẩm OCOP nhiều nhất tỉnh Bắc Kạn với 10 sản phẩm được chứng nhận. Đây là một "tấm vé thông hành" quan trọng để sản phẩm của HTX Hợp Giang tự tin tiến vào các kênh phân phối hiện đại.
Không dừng lại ở đó, HTX đang tiếp tục nghiên cứu và phát triển các dòng sản phẩm chế biến sâu như nấm chiên giòn ăn liền, ruốc nấm, viên mọc nấm, cao linh chi...
Thành công của HTX được thể hiện rõ nét qua những con số doanh thu tăng trưởng ngoạn mục qua từng năm, nếu như năm 2028, doanh thu của HTX chỉ khoảng 900 triệu đồng thì nay đã là hàng tỷ đồng.
Tuy vậy, quá trình phát triển của HTX cũng gặp những khó khăn nhất định. Giai đoạn đại dịch Covid-19 khiến thị trường truyền thống bị co hẹp lại nên HTX bị động trong tiêu thụ. Nhưng trong nguy có cơ, chính khó khăn đó đã buộc các thành viên HTX phải thay đổi, phải tìm cách tiếp cận thị trường mới. HTX đã đẩy mạnh bán hàng trên các sàn thương mại điện tử, xây dựng fanpage, website. Nhờ đó, khách hàng trên cả nước đã biết đến và đặt mua sản phẩm của HTX. Đó là một bước chuyển mình quan trọng giúp HTX không chỉ "sống sót qua đại dịch" mà còn phát triển mạnh mẽ hơn.
Nhìn lại chặng đường giảm nghèo
Những thành quả của HTX Hợp Giang không chỉ nằm ở con số doanh thu. Ý nghĩa lớn lao hơn là tác động lan tỏa, làm thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế - xã hội của xã Lục Bình.
Từ chỗ chỉ biết làm nông tự cung tự cấp, giờ đây hàng chục hộ gia đình đã có việc làm và thu nhập ổn định từ 5-10 triệu đồng/tháng ngay tại quê hương. Mô hình của HTX đã phá vỡ tư duy sản xuất cũ, manh mún, cho người dân thấy rằng nông nghiệp hoàn toàn có thể làm giàu nếu đi đúng hướng, biết ứng dụng khoa học kỹ thuật và liên kết lại với nhau.
Câu chuyện của HTX Hợp Giang là một minh chứng sống động cho chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, về chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" (OCOP). Nó cho thấy con đường giảm nghèo bền vững nhất chính là phát huy nội lực, biến tiềm năng, lợi thế của địa phương thành những sản phẩm hàng hóa có giá trị, có thương hiệu.
Hành trình từ những đống rơm rạ bỏ đi đến những sản phẩm OCOP trị giá hàng tỷ đồng của HTX Hợp Giang không chỉ là câu chuyện khởi nghiệp của riêng chị Lường Thị Giang, mà còn là câu chuyện về sự chuyển mình của cả một vùng quê, thắp lên hy vọng về một tương lai ấm no, sung túc cho người dân xã Lục Bình.
Từ một xã gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao, đến nay, tỷ lệ diện tích đất nông nghiệp được tưới tiêu chủ động của xã đã đạt 96%; 100% các hộ gia đình trên địa bàn xã được sử dụng điện thường xuyên. Xã không còn nhà tạm, nhà dột nát. Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 45,1 triệu đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều chỉ còn 11,4%.
Có thể khẳng định, HTX Hợp Giang hiện là một trong những mô hình kinh tế tập thể tiêu biểu không chỉ của xã Lục Bình mà còn của huyện Bạch Thông nhờ tích cực phát triển sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị và tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Chính vì vậy, thời gian qua, thông qua Liên minh HTX tỉnh và các ngành chức năng, HTX Hợp Giang đã tiếp cận được nguồn vốn từ Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 để xây dựng nhà xưởng sản xuất chế biến bên cạnh nguồn vốn đối ứng 20% của HTX. Điều này cho thấy, khi HTX muốn phát triển thành mô hình kinh tế mũi nhọn thì ngoài nỗ lực từ chính các thành viên, cũng cần sự trợ lực từ các ngành chức năng để làm cầu nối giúp HTX tiếp cận được các chính sách hỗ trợ một cách hiệu quả. Và khi HTX phát triển hiệu quả sẽ là nền tảng thúc đẩy kinh tế và giảm nghèo tại địa phương.
Minh Nhương