Đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển bền vững của DN, hoạt động R&D được thể hiện ở nhiều khía cạnh như: cải thiện khả năng đổi mới, tăng cường năng lực công nghệ, làm đa dạng hệ thống sản phẩm – dịch vụ, bắt kịp xu thế thị trường, củng cố và nâng cao vị thế cùng giá trị… giúp thúc đẩy tốc độ phát triển cũng như bảo đảm trước sự gia tăng cạnh tranh cho DN.
Đầu tư “lấy lệ”
Tuy nhiên, các khảo sát mới đây cho thấy trung bình ở Việt Nam, hoạt động R&D chỉ chiếm dưới 1% tỷ lệ đầu tư trên tổng doanh thu của DN. Đây quả là con số đáng báo động khi tại nhiều nước trên thế giới, các DN luôn xem R&D là bộ phận không thể thiếu, mang yếu tố sống còn với hệ thống sản phẩm, dịch vụ của DN và thường được đầu tư ở mức hai con số, gấp hàng chục lần so với mức của DN Việt.
Theo số liệu điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2014, ở Việt Nam, trong tổng số 7.450 DN tham gia khảo sát, chỉ 464 DN khẳng định có các hoạt động R&D (chiếm 6,23%). Kết quả này cho thấy, hầu hết DN Việt Nam chưa thực sự quan tâm đến hoạt động R&D. Nếu tính tổng vốn đầu tư cho đổi mới công nghệ, tỷ lệ này của DN Việt Nam chỉ khoảng 0,2 – 0,5% doanh thu, trong đó đầu tư vào R&D chưa tới 0,01% doanh thu.
Nghiên cứu của công ty Cổ phần Monaco Tư vấn và Đầu tư cũng cho biết, tỷ lệ đầu tư cho các hoạt động R&D từ 728 DN được khảo sát thuộc các ngành nông nghiệp, công nghệ thông tin và y dược thực sự rất thấp.
Cụ thể, tỷ lệ chi phí cho R&D so với doanh thu của các DN trong ngành công nghệ thông tin và truyền thông là 2,97%, ngành nông nghiệp và thủy sản là 2,92% và ngành y dược cổ truyền là 2,75%. Trong khi đó, chỉ tiêu này của các ngành khác đạt mức 3,3%.
Theo Ts. Đặng Thu Hương, trường Đại học Kinh tế Quốc dân, kết quả điều tra mới đây nhất từ 300 DN công nghiệp (mỗi DN có ít nhất 15 lao động trở lên) tại địa bàn tỉnh Hưng Yên năm 2016 cho thấy, 58,5% DN không có hoạt động chi cho R&D, trong khi đó, chỉ khoảng 14,2% DN dành mức dưới 0,5% doanh số cho hoạt động này. Đồng thời, 16,2% DN có mức chi khoảng 1,5 – 2%. Tỷ lệ các DN còn lại có chi cho R&D ở các mức dưới 3%.
“Qua kết quả nghiên cứu định tính trong khoảng ba năm gần đây, dường như không có DN công nghiệp nào xây dựng chiến lược R&D cho mình”, Ts. Thu Hương nhận xét.
Dấu hiệu đáng quan ngại chính là mức chi cho hoạt động R&D có xu hướng không được cải thiện trong ba năm gần đây tại các DN. Qua khảo sát, trong số những DN phản hồi, 64% DN không có sự thay đổi về tỷ lệ R&D so với tổng doanh số của ba năm gần đây. Khoảng 35% DN phản ánh tỷ lệ này có xu hướng tăng lên. Chỉ một tỷ lệ rất nhỏ các DN cho thấy tỷ lệ chi cho R&D có xu hướng giảm xuống (0,8%).
Trước đó, theo kết quả khảo sát hơn 200 DN trong khu Công nghiệp và Chế xuất Hà Nội của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Phát triển (Đại học Kinh tế Quốc dân), chỉ 22,8% DN chế tạo – chế biến và 25% DN lắp ráp có bộ phận R&D, song tỷ lệ đầu tư cho R&D cũng rất thấp, không có DN lắp ráp nào đầu tư ở mức 3 – 4,5%.
![]() |
Nguyên nhân chủ yếu là do DN chưa nhận thấy mức độ cần thiết phải triển khai hoạt động R&D trong khi đang cần tập trung kinh phí cho việc lựa chọn mua dây chuyền, máy móc, trang thiết bị để đổi mới công nghệ phục vụ sản xuất, kinh doanh.
Nhỏ thiếu tiềm lực, lớn “lười” đầu tư
Việc đầu tư cho R&D hay tiềm ẩn những rủi ro nhất định nên nhiều DN (chủ yếu là các DN vừa và nhỏ) chưa thực sự mặn mà, hoặc nếu có cũng chỉ đầu tư theo kiểu nhỏ giọt Tuy nhiên, ngay cả những DN có quy mô lớn, tỷ lệ đầu tư vào R&D cũng rất ít so với tổng doanh thu.
Lý giải cho việc không mấy chú trọng đầu tư vào R&D của các DN, số liệu điều tra các DN trên địa bàn tỉnh Hưng Yên chỉ rõ: 72,3% ý kiến cho biết yếu tố chính gây cản trở trực tiếp đến R&D của DN là do chi phí của hoạt động này quá cao; 59,4% ý kiến cho biết do thiếu nhân lực có trình độ; 28,9% là vì thời gian thu hồi vốn dài; 25,4% là sợ rủi ro cao; 13,3% không có công nghệ cần thiết trên thị trường và 5,5% thiếu sự hỗ trợ của luật pháp.
Những số liệu này cho thấy các yếu tố nội bộ của DN ảnh hưởng chủ yếu đến hoạt động R&D, với yếu tố vốn và nhân lực cản trở nhiều nhất. Trong khi đó, các yếu tố bên ngoài gây cản trở yếu hơn, cụ thể là yếu tố về thị trường và chính sách pháp luật, thủ tục hành chính ít tác động nhất đến hoạt động đầu tư R&D của DN.
Tương tự, 58,8% DN trong khu Công nghiệp và Chế xuất ở Hà Nội cho rằng đầu tư vào R&D có chi phí quá cao và thời gian thu hồi vốn quá dài. Ngoài ra, một số yếu tố nội bộ của DN cũng là nguyên nhân gây cản trở cho đầu tư R&D.
Cụ thể, 56,7% DN thiếu thông tin về công nghệ và gần 57% DN cho biết rất thiếu thông tin về thị trường; 50,7% cho rằng khó kiểm soát chi phí.
Bình luận về vấn đề này, bà Phạm Chi Lan, chuyên gia kinh tế, cho rằng hiện nay, các DN Việt Nam mới chỉ chú trọng đến khâu sản xuất và định giá sản phẩm mà chưa tập trung vào các khâu tạo nên giá trị gia tăng như R&D, xúc tiến tiếp thị (P&M). Trong khi đó, ở các quốc gia phát triển, nếu được phát huy tốt, R&D có thể tạo ra 30 – 35% và P&M là 20 – 25% giá trị gia tăng cho hàng hóa, dịch vụ.
Vì vậy, “nếu không đầu tư cho R&D, DN Việt Nam không thể tham gia vào chuỗi giá trị gia tăng của sản phẩm toàn cầu. Hơn nữa, nếu DN không quan tâm đến đầu tư vào R&D sẽ khó có khả năng phát triển bền vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay”, bà Lan nhấn mạnh.
Theo đánh giá của Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ, chuyển giao công nghệ nước ngoài có vai trò rất quan trọng đối với việc nâng cấp công nghệ trong nước, nhất là với các nước công nghiệp mới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn chưa tận dụng tốt điều này.
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF), hiệu quả và chuyển giao công nghệ từ các DN FDI ở Việt Nam rất thấp, năm 2014 ở vị trí thứ 103/134, giảm 46 bậc sau 5 năm, thấp hơn nhiều so với vị trí các nước trong khu vực như Malaysia xếp thứ 13, Thái Lan 36, Indonexia 39, Philippines 42 và Campuchia 44.
Lê Thúy
Ts. Đặng Thu Hương - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Đầu tư cho hoạt động R&D là đầu tư mang tính chất dài hạn, rủi ro cao nhưng lợi nhuận mang lại khá lớn. Chính vì vậy, cần phải rà soát lại hoạt động của các DN, đưa ra các tiêu chí cụ thể, rõ ràng. Các DN được lựa chọn cần phải công khai để DN có trách nhiệm với những khoản vốn được đầu tư. Việc đầu tư cho DN chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu cụ thể của DN không nên phụ thuộc vào quy mô DN. Ông Trần Văn Tùng - Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Chuyển giao công nghệ giữa DN FDI và DN trong nước đang gặp vướng mắc, các DN FDI chưa có ý định chuyển giao do vẫn xem Việt Nam như một phương án sản xuất kinh doanh và có lợi nên họ giữ công nghệ riêng của mình. Đồng thời, bản thân các DN Việt Nam cũng cần chủ động tìm kiếm công nghệ của riêng mình, có thể nghiên cứu trong nước, kết hợp với các nhà khoa học để làm sao hấp thụ công nghệ tốt, phù hợp với hoạt động của mình. PGs.Ts. Hoàng Minh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và Công nghệ Việt Nam nên học chính sách bản địa hóa của Singapore là dựa nhiều vào chuyển giao công nghệ trong nước qua FDI nhưng không để thị trường quyết định hoàn toàn. Theo đó, Chính phủ nhắm mục tiêu vào phát triển công nghệ phức tạp và yêu cầu các công ty đa quốc gia nâng cấp “chức năng” bản địa. Chính sách này cần nền tảng kỹ năng mạnh, một hệ thống quản lý có khả năng lựa chọn công nghệ tối ưu, có mục tiêu cụ thể và “mặc cả” với các tập đoàn đa quốc gia để kiểm soát những ưu đãi một cách hiệu quả. |