“Khách hàng vẫn đang cần chúng tôi và giữ nguyên đơn hàng. Chưa có đối tác Hoa Kỳ nào đặt vấn đề về giá hay yêu cầu chia sẻ thuế”, đó là thông tin được bà Đỗ Thị Thuý Hương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI), Uỷ viên Ban chấp hành Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam (VEIA) cung cấp trong một diễn đàn gần đây.
Vị thế của ngành điện tử Việt Nam
Bà Hương cho biết, từ tháng 4 đến nay, các doanh nghiệp vẫn xuất hàng sang Hoa Kỳ bình thường, thậm chí tăng tốc hơn. Đặc biệt, dù hiện tại thuế quan nhập khẩu hàng điện tử vào Hoa Kỳ là 10% nhưng doanh nghiệp không bị khách hàng ép giá.
![]() |
Rủi ro thuế quan cùng các biến động chuỗi cung ứng có thể là cơ hội để ngành điện tử Việt vươn lên. |
Đầu tháng 4, Hoa Kỳ tuyên bố có thể nâng thuế nhập khẩu với hàng hóa từ Việt Nam lên 46%, hiện đang tạm hoãn đến ngày 8/7/2025 với mức 10%. Tổng thống Donald Trump vừa qua cũng đã nói rõ tham vọng muốn mang sản xuất chip, máy tính, điện thoại trở lại Hoa Kỳ, đồng thời tuyên bố Apple sẽ phải trả tối thiểu 25% thuế cho iPhone nếu không sản xuất tại Mỹ.
Tuy nhiên đến thời điểm này, cũng giống như bà Hương, bà Trần Thị Thu Trang, Chủ tịch HĐQT, CTCP sản xuất gia công & xuất nhập khẩu Hanel xác nhận, tình hình vẫn chưa xấu đi. Mức thuế tạm thời 10% cho hàng điện tử Việt sang Hoa Kỳ chưa ảnh hưởng nhiều tới các doanh nghiệp Việt.
“Khi thông báo với các nhà cung cấp họ không hề có ý định thay đổi bất cứ thứ gì, chưa có tác động gì cho đến thời điểm hiện tại. Tuy nhiên chắc họ vẫn đang cân nhắc đối sách nếu mức thuế áp dụng là 46% thì sẽ như thế nào. Còn mức 10% có lẽ vẫn nằm trong mức họ chịu của họ”, bà Trang phán đoán.
Tình huống hiện tại phản ánh một thực tế: Ngành điện tử Việt Nam đã có chỗ đứng vững chắc trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt với thị trường Mỹ - đối tác xuất khẩu lớn nhất.
Số liệu thống kê cho thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu điện tử Việt Nam 5 năm qua tăng trưởng rất đáng kể, từ 87,2 tỷ USD (2019) lên đến 126,4 tỷ USD (2024), và đạt hơn 35 tỷ USD chỉ trong quý I/2025.
Hai mặt hàng chủ lực - máy tính và linh kiện, điện thoại và linh kiện - đã đưa Việt Nam lên vị trí thứ 5 thế giới về xuất khẩu máy tính, và thứ 2 về xuất khẩu điện thoại di động (theo World Trade Report 2020). Trong đó Hoa Kỳ là thị trường lớn nhất của hàng điện tử Việt Nam. Các thị trường theo sau lần lượt là Trung Quốc, EU, Hồng Kông, Hàn Quốc và ASEAN.
Các số liệu trên cho thấy Việt Nam đã thâm nhập khá sâu vào các thị trường lớn nhất thế giới, cũng như chuỗi cung ứng toàn cầu với tỷ trọng cao.
Tuy nhiên, lâu nay ngành điện tử Việt Nam vẫn được định vị nằm ở mức đáy của "đường cong nụ cười" – nơi giá trị gia tăng rất thấp. Các doanh nghiệp điện tử Việt vẫn đang đối mặt với không ít thách thức như từ trình động lao động, tiêu chuẩn xanh của EU (CBAM) hay việc phụ thuộc nguyên liệu đầu vào của Trung Quốc.
Nếu mức thuế cao hơn được áp dụng chính thức, câu hỏi lớn đặt ra là các doanh nghiệp sẽ ứng phó ra sao? Làm sao để giữ được vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu?
Cơ hội nâng cấp nội lực
Thời gian qua, với lợi thế địa lý, chính trị ổn định, dân số gần 100 triệu người và lực lượng lao động trẻ, Việt Nam trở thành điểm đến đầu tư hấp dẫn của các tập đoàn công nghệ toàn cầu như Apple, Intel, Samsung, LG…
Dù Tổng thống Trump muốn mang sản xuất trở lại Hoa Kỳ nhưng theo bà Đỗ Thị Thuý Hương, thuế quan không đủ để tái công nghiệp hoá Mỹ, vì quá trình này đòi hỏi đầu tư lớn vào hạ tầng, đào tạo lao động và chính sách công nghiệp dài hạn.
“Để xây dựng một chuỗi cung ứng hoàn chỉnh tại Việt Nam, Samsung phải mất 9 năm, Intel và Apple mất 4 năm. Do đó không dễ dàng chuyển sản xuất về Hoa Kỳ”, bà Hương cho hay.
Cũng theo chuyên gia, nguồn nhân lực Hoa Kỳ khó đáp ứng các yêu cầu tổ chức sản xuất, lắp ráp tinh gọn, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao hay lắp ráp điện tử như lao động Đông Nam Á - vốn nhanh nhẹn, tháo vát, chi phí rẻ.
Lãnh đạo Hiệp hội doanh nghiệp điện tử Việt Nam cho rằng, cần nhìn nhận thuế quan như một “cú sốc cần thiết”, để ngành điện tử tự soi lại mình và tái cơ cấu theo hướng bền vững, giá trị cao hơn.
Đồng quan điểm, TS. Bùi Thanh Minh, Phó Giám đốc chuyên môn tại Văn phòng Ban Nghiên cứu và Phát triển Kinh tế Tư nhân (Ban IV), niềm tin và minh bạch là điều kiện tiên quyết giúp doanh nghiệp giữ được vị trí trong chuỗi cung ứng.
“Doanh nghiệp phải thay đổi thói quen quản trị doanh nghiệp để minh bạch được chuỗi sản xuất và sản phẩm. Khi đó mới giữ được mình trong chuỗi cung ứng, giữ được đơn hàng dài hạn”, ông Minh nói.
Đặc biệt, ông Minh cho rằng đây là “thời cơ lịch sử” để doanh nghiệp tận dụng chính sách hỗ trợ từ Nhà nước. Nghị quyết 57 của Trung ương định hướng rõ việc chuyển từ mô hình tăng trưởng thâm dụng lao động và tài nguyên sang mô hình tăng trưởng dựa trên khoa học công nghệ, chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo. Các cải cách mạnh mẽ, các chính sách hỗ trợ như ưu đãi thuế, lãi suất, phát triển công nghiệp hỗ trợ… là “trợ lực” mà doanh nghiệp cần chủ động tìm đến trong quá trình "nâng cấp" đầu tư vào công nghệ, R&D, sản xuất sạch, phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật chất lượng cao...
Hiện tại nhiều doanh nghiệp đã đẩy nhanh sản xuất, hoàn thiện đơn hàng để tránh nguy cơ gián đoạn do thay đổi thuế suất. Nhưng về lâu dài, sự chuẩn bị cần kỹ lưỡng hơn.
Các chuyên gia nhấn mạnh, doanh nghiệp không được quên "bài học" thuế quan và sự sợ hãi khi nhìn thấy con số 46%. Doanh nghiệp cần có tư duy toàn cầu, có lộ trình phù hợp cho hành động thực tế, đi từng bước một để vươn lên.
PGS.TS. Phạm Thế Anh, Trưởng Khoa kinh tế học, Trường Đại học kinh tế Quốc dân Các doanh nghiệp Việt Nam phải chủ động tỷ lệ nội địa hoá và xuất xứ hàng hoá. Vấn đề liên quan để tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm sẽ là một điều kiện để đàm phán thuế quan. Ví dụ như có thể áp mức thuế khác nhau vào các tỷ lệ nội địa hoá khác nhau. Các doanh nghiệp cần chủ động trong việc tránh đội lốt xuất xứ hàng hoá, chủ động trong việc nâng cao tỷ lệ nội địa hoá sẽ tránh rủi ro thuế quan.
Ông Phạm Văn Đồng, Giám đốc Công ty TNHH Tư vấn năng suất và Chất lượng Quốc tế (IPQ) Chỉ khi nội bộ công ty ổn định về mọi mặt, chúng ta mới thích nghi được với mọi thay đổi. Doanh nghiệp cần chuẩn hoá hệ thống quản lý sản xuất, quản lý chất lượng bài bản. Cần cải tiến doanh nghiệp tiếp tới sản xuất tinh gọn, doanh nghiệp tinh gọn. Bên cạnh đó cần lộ trình tự động hoá, chuyển đổi số, ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Ông Akira Miyamoto, Tổng Giám đốc, Công ty TNHH Sufex Trading Hầu hết các doanh nghiệp FDI đều mong muốn tham gia vào chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Điều quan trọng là nhà cung cấp Việt phải có chiến lược quảng bá doanh nghiệp hiệu quả nhất, cho đối tác thấy rõ năng lực của mình để họ muốn duy trì hợp tác. Các doanh nghiệp cần hiểu rõ về thị trường, vị trí của mình và các sản phẩm trên thị trường, đồng thời cải thiện từng bước để thu hút và giữ chân khách hàng. Việc tham gia các chương trình triển lãm là một hình thức rất tốt để quảng bá về công ty và sản phẩm. |
Đỗ Kiều