Ngân hàng HSBC vừa công bố Kết quả khảo sát Global Trade Pulse 2025, với sự tham gia của hơn 5.700 doanh nghiệp quốc tế doanh thu từ 50 triệu – 2 tỷ USD tại 13 thị trường, trong đó bao gồm 250 doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam.
Khảo sát đặc biệt này đã “bắt mạch” thương mại toàn cầu, mang đến thông tin chuyên sâu về kế hoạch kinh doanh và tâm thế của doanh nghiệp quốc tế đối với vấn đề thuế quan và thương mại.
![]() |
Doanh nghiệp toàn cầu sẵn sàng đối mặt với trở ngại về chuỗi cung ứng và lạc quan trước những khó khăn trong thương mại quốc tế. |
Doanh nghiệp Việt Nam đối mặt chi phí tăng cao
Theo kết quả khảo sát, doanh nghiệp Việt Nam phải đối mặt với tình trạng chi phí tăng cao hơn hẳn so với mức trung bình toàn cầu và dự kiến sẽ phát sinh thêm chi phí ngắn hạn do bất ổn thương mại.
Cụ thể, 80% doanh nghiệp Việt Nam tham gia khảo sát đã phải đối mặt với tình trạng chi phí gia tăng do biến động thuế quan và thương mại. Họ có thể sẽ phải đối mặt với chi phí tăng cao hơn trong ngắn hạn (82%) và tăng nhẹ thêm nữa trong dài hạn (75%). Tác động lên doanh thu bình quân đối với doanh nghiệp Việt Nam do chậm trễ/gián đoạn chuỗi cung ứng cao hơn mức trung bình toàn cầu 2 điểm phần trăm.
Để ứng phó với bất ổn thương mại, các doanh nghiệp Việt Nam đã mang hoạt động sản xuất về lại trong nước (42%), dịch chuyển trọng tâm sang thị trường trong nước (41%) và gia tăng hoạt động phân tích dữ liệu (41%).
Nhìn về tương lai, các công ty Việt Nam vẫn tự tin về tăng trưởng quốc tế (81%). Nhiều doanh nghiệp tham gia khảo sát (76%) cho rằng bất ổn thương mại đã khuyến khích họ phát triển và tìm kiếm cơ hội mới. Mặc dù vậy, hơn một nửa doanh nghiệp (54%) cho biết họ cần sự hỗ trợ bên ngoài trong việc lập kế hoạch đối phó với khủng hoảng và củng cố sức bền cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp châu Á xem xét lại chiến lược
Theo Ngân hàng HSBC, bản đồ thương mại châu Á sẽ có nhiều thay đổi lớn nếu tình hình thương mại bất ổn còn tiếp diễn.
Trong đó, 38% doanh nghiệp châu Á sẽ gia tăng hoạt động thương mại với Nam Á, 36% gia tăng hoạt động thương mại với châu Âu, 33% gia tăng hoạt động thương mại với Trung Đông nhưng 28% giảm hoạt động thương mại với Bắc Mỹ.
Trong vòng hai năm tới, 52% công ty châu Á cân nhắc hoặc đang trong quá trình dịch chuyển hoạt động sản xuất đến hoặc gia tăng hoạt động sản xuất tại Trung Quốc. Đối với Nam Á, con số này là 39%, châu Âu là 35%, Mỹ 29% và Trung Đông là 28%.
Hiện tại, vấn đề đáng quan ngại nhất với doanh nghiệp châu Á (51%) là chi phí gia tăng do thuế quan và các yếu tố liên quan đến thương mại. 34% nhóm doanh nghiệp Châu Á đã điều chỉnh giá để phản ánh tình hình chi phí tăng cao, trong khi 51% có kế hoạch sẽ triển khai trong tương lai.
Ngoài ra, 37% công ty châu Á đã tăng mức độ hàng tồn kho để quản lý gián đoạn cung ứng và 49% dự định sẽ triển khai việc này.
“Trước khi thông báo thuế quan được công bố, nhiều doanh nghiệp mua hàng đã chủ động tăng mức tồn kho bằng chiến lược đẩy nhanh đơn hàng đặt trước để ứng phó với những vấn đề chuỗi cung ứng dẫn tới lượng hàng tồn gia tăng ở phía người mua. Ở chiều ngược lại, khi quy định thuế quan tạm thời đi vào thực thi kéo theo tình trạng treo hoặc hủy hàng loạt đơn đặt hàng và vận chuyển ở một số lĩnh vực cũng dẫn đến hàng tồn tăng ở phía nhà cung cấp”, ông Surajit Rakshit, Giám đốc Toàn quốc Khối Giải pháp Thương mại Toàn cầu của HSBC Việt Nam cho biết.
Trong giai đoạn gián đoạn thương mại hiện nay, các công ty châu Á nhận định quản lý dòng tiền và thanh khoản là hình thức hỗ trợ hiệu quả nhất trong quản lý vốn lưu động (61%), theo sau là cải thiện điều khoản thanh toán với bên mua và bên cung ứng (55%) và tài trợ chuỗi cung ứng (51%).
Doanh nghiệp coi thách thức là "chất xúc tác"
66% doanh nghiệp tham gia khảo sát đã phải đối mặt với tình trạng chi phí gia tăng do biến động thuế quan và thương mại – và đây vẫn chưa phải tình huống xấu nhất. Các công ty nhận định chi phí có thể tiếp tục gia tăng cả trong ngắn hạn (73%) và dài hạn (72%).
Các doanh nghiệp cũng nhìn thấy trước khả năng sụt giảm doanh thu bình quân 18% do chậm trễ trong chuỗi cung ứng.
Hơn một nửa doanh nghiệp tham gia khảo sát (51%) nhận định chi phí gia tăng là mối lo hàng đầu đối với chiến lược cung ứng và 85% doanh nghiệp đã hoặc có kế hoạch điều chỉnh chiến lược theo hướng tăng giá để phản ánh tình trạng chi phí cao hơn hoặc những biến động trên thị trường.
78% doanh nghiệp đang phải xem xét lại mô hình kinh doanh lâu dài. Nếu tình hình thuế quan bất ổn còn tiếp diễn trong hai năm tới, 43% công ty sẽ xem xét lại chiến lược mở rộng kinh doanh trên thị trường quốc tế và 39% sẽ chuyển trọng tâm sang thị trường trong nước hoặc khu vực.
Bất chấp những khó khăn này, tâm lý lạc quan về mở rộng thương mại toàn cầu vẫn vững vàng. 89% doanh nghiệp tự tin vào khả năng tăng trưởng thương mại quốc tế trong vòng hai năm tới. Các doanh nghiệp cũng sắp xếp lại chuỗi cung ứng, xem xét lại cách thức và thị trường hoạt động. Hầu hết đang bắt đầu hoặc có kế hoạch áp dụng chiến lược nearshoring và reshoring.
Nhóm doanh nghiệp có khả năng cao sẽ bắt đầu áp dụng chiến lược nearshoring thuộc lĩnh vực Công nghệ, Truyền thông và Viễn thông (87% đã áp dụng hoặc có kế hoạch sẽ áp dụng).
Doanh nghiệp có khả năng cao phải đối mặt với chi phí gia tăng trong vòng hai năm tới chủ yếu rơi vào lĩnh vực Công nghệ, Truyền thông và Viễn thông (76%), theo sau là Y tế (73%) và Tiêu dùng (73%).
Đáng chú ý, một loạt doanh nghiệp tham gia khảo sát nhìn nhận áp lực thương mại giống như chất xúc tác thúc đẩy đổi mới, sáng tạo. 77% doanh nghiệp nói rằng yếu tố này đã khuyến khích họ phát triển và tìm kiếm cơ hội mới. Nhiều doanh nghiệp (58%) đã ứng dụng công nghệ hoặc nền tảng mới, 56% cải thiện được hiệu suất nội bộ hoặc cơ cấu chi phí và 51% đã phát triển sản phẩm hoặc dịch vụ mới.
Khảo sát cũng cho thấy sự xuất hiện của những hành lang thương mại mới ở một số thị trường. HSBC quan sát thấy các doanh nghiệp toàn cầu đang củng cố các mối quan hệ tại những thị trường trọng yếu bên ngoài. Doanh nghiệp Malaysia (61%) và Việt Nam (52%) đang mở rộng quan hệ với Trung Quốc; doanh nghiệp Ấn Độ (54%) và Mỹ (51%) với châu Âu và doanh nghiệp Vương quốc Anh (46%) và Ấn Độ (62%) với Mỹ.
Đỗ Kiều