Theo các chuyên gia, để phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP 8,3-8,5% trong năm nay, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, chính sách tiền tệ đóng vai trò hết sức quan trọng.
Dư địa đã cạn?
Nhằm hỗ trợ tăng trưởng, ngành ngân hàng phải tăng cung ứng vốn cho nền kinh tế. Điều này cũng bắt buộc nhà điều hành phải đối mặt với bài toán là làm thế nào kiểm soát dòng vốn chảy vào các lĩnh vực ưu tiên và làm sao để các ngân hàng không “đua” lãi suất đầu vào khi cầu tín dụng tăng mạnh.
Đặc biệt, một vấn đề mà Chính phủ rất quan tâm hiện nay là ổn định lãi suất tiền gửi, tạo tiền đề giảm lãi suất cho vay để đẩy nhanh quá trình phục hồi và phát triển của nền kinh tế.
![]() |
Để phục vụ mục tiêu tăng trưởng GDP 8,3-8,5% trong năm nay, nhưng vẫn phải đảm bảo kiểm soát lạm phát, ổn định vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế, chính sách tiền tệ đóng vai trò hết sức quan trọng. |
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặt bằng lãi suất cho vay tiếp tục có xu hướng giảm. Đến ngày 31/7/2025, lãi suất tiền gửi bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới tại các ngân hàng ở mức 4,1%/năm, ổn định so với cuối năm 2024; lãi suất cho vay bình quân đối với các giao dịch phát sinh mới ở mức 6,5%/năm, giảm khoảng 0,4%/năm.
Tuy nhiên, tỷ giá đang chịu áp lực khá lớn, do tác động kép từ yếu tố kinh tế và tâm lý thị trường. Tính đến nay, tỷ giá VND/USD đã tăng 2,9% so với cuối năm 2024. Trong bối cảnh đó, nếu áp lực tiếp tục tăng mạnh, NHNN cho biết quan điểm sẽ cân nhắc không tiếp tục giảm lãi suất để tránh ảnh hưởng đến ổn định tỷ giá từ đó gây bất ổn vĩ mô.
"Chúng tôi sẽ theo dõi sát diễn biến, tùy từng giai đoạn mà đặt ưu tiên phù hợp, hướng tới mục tiêu chung là ổn định vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế một cách bền vững", Thống đốc NHNN Nguyễn Thị Hồng khẳng định.
Chưa kể, áp lực lạm phát đang tăng, nên việc tăng cung tiền sẽ càng làm tăng áp lực này. Các yếu tố như điều chỉnh giá điện, giá dịch vụ y tế, giá thuê nhà... đang tạo áp lực chi phí đầu vào và đẩy lạm phát cơ bản tăng liên tục qua các tháng gần đây. Lạm phát cơ bản – vốn phản ánh tác động dài hạn của chính sách tiền tệ – là chỉ số quan trọng khiến cơ quan điều hành không thể chủ quan.
"Lạm phát khi xuất hiện thì rất nhanh nhưng để kiểm soát giảm lại thì rất khó. Đây là lý do cần điều hành chính sách một cách chủ động, sát diễn biến và thận trọng", Thống đốc NHNN nhấn mạnh.
Một yếu tố nữa là tăng trưởng tín dụng đang rất cao, làm thế nào để "nắn" dòng vốn chảy vào lĩnh vực ưu tiên? Trong 7 tháng đầu năm nay, tín dụng tăng gần 10%, gần gấp đôi so với mức tăng 6% cùng kỳ năm trước. Mức tăng này chưa phải là nóng, song điều đáng lo là nếu dựa trên báo cáo tài chính quý II/2025 của các ngân hàng thương mại, thì cho vay kinh doanh bất động sản tăng gần 46% so với cùng kỳ năm trước.
Cần giải pháp đồng bộ
Trong bối cảnh hiện nay, các chuyên gia cho rằng cần có giải pháp đồng bộ để hỗ trợ chính sách tiền tệ hoạt động hiệu quả hơn.
Về dài hạn, cần có giải pháp để phát triển cân bằng các trụ cột chính của thị trường vốn gồm tín dụng, cổ phiếu và trái phiếu doanh nghiệp, giúp giảm áp lực lên tín dụng ngân hàng.
Theo đó, các lĩnh vực cần vốn trung, dài hạn như bất động sản, hạ tầng… phải khai thông được kênh huy động vốn qua trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu địa phương cùng các khoản vay quốc tế… Đồng thời, cần mở rộng các chương trình bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Điều này vừa giúp ngân hàng yên tâm cấp tín dụng, vừa giúp doanh nghiệp được tiếp cận vốn rẻ có thêm động lực mạnh dạn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.
Đối với dòng vốn tín dụng, NHNN cũng thừa nhận tăng trưởng tín dụng với bất động sản tăng cao hơn bình quân chung. Tuy nhiên, nhà điều hành lý giải mức tăng này không có sự bất thường, bởi thời gian qua, Chính phủ có nhiều giải pháp tháo gỡ khó khăn cho thị trường này. Khi nhiều dự án bất động sản được gỡ vướng về pháp lý, thì nhu cầu vốn đầu tư tăng cao là điều tất yếu.
NHNN khẳng định tín dụng bất động sản hiện vẫn đảm bảo an toàn. Dù vậy, nếu tình trạng này kéo dài thì rất dễ dẫn tới nguy cơ dòng chảy tín dụng bị lệch pha.
Bất động sản nói riêng và hạ tầng nói chung đang thu hút nhiều nhất vốn đầu tư vào nền kinh tế và đều đòi hỏi nguồn vốn vay trung, dài hạn. Theo các chuyên gia, điều đó sẽ dẫn đến rủi ro mất cân đối kỳ hạn trong hệ thống ngân hàng. Cũng vì vậy, việc thí điểm gỡ bỏ room tín dụng từ năm 2026, nếu chưa có giải pháp hữu hiệu để kiểm soát dòng vốn chảy vào lĩnh vực rủi ro, đặc biệt các công ty "sân sau", sẽ khiến tình trạng lệch pha tín dụng thêm khó đoán.
Đồng thời, khi bỏ chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, nhiều ngân hàng sẽ có tốc độ tăng trưởng cao, đẩy mặt bằng lãi suất thị trường lên cao.
Rõ ràng, việc gỡ bỏ room tín dụng là cần thiết, được thị trường mong đợi, song làm sao để bỏ “room” mà vẫn nắn được dòng vốn chảy vào các lĩnh vực ưu tiên lại là thách thức lớn.
Theo ông Phạm Chí Quang, Vụ trưởng Vụ Chính sách tiền tệ, việc gỡ bỏ biện pháp điều hành chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng cần được tiến hành thận trọng trên cơ sở phải có giải pháp chính sách thay thế có tính khả thi cao, phù hợp với điều kiện của Việt Nam nhằm đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống tổ chức tín dụng.
Một trong những biện pháp mà các tổ chức quốc tế khuyến nghị NHNN phải rất chủ động trong điều hành lãi suất. "Do đó, NHNN sẽ cân nhắc thận trọng, đánh giá tác động chính sách rất kỹ lưỡng để có báo cáo Chính phủ, Thủ tướng về lộ trình dỡ bỏ room tín dụng trong thời gian tới", ông Quang cho biết thêm.
Ông Lê Thanh Tùng, thành viên HĐQT VietinBank nhận định: “NHNN nghiên cứu hoàn thiện và sử dụng đồng bộ các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, quản trị rủi ro, thanh tra giám sát theo thông lệ quốc tế sẽ góp phần hỗ trợ cho việc chuyển đổi sang cơ chế điều hành tăng trưởng tín dụng theo cơ chế thị trường theo chỉ đạo của Chính phủ”.
Thanh Hoa